1. GIỚI THIỆU CHUNG:
1.1- Lịch sử hình thành vùng đất:
Nguồn gốc tên gọi Trà My có từ bao giờ, không ai còn nhớ rõ, nhưng có nhiều cách giải thích về tên gọi Trà My. Riêng cách giải thích: Trà My là tên gọi của một con suối có tên DakTamin được chọn đặt tên cho vùng đất nay thuộc thị trấn Trà My và dần dần được đọc trại thành Trà My, được nhiều người chấp nhận hơn.
Vào thời kỳ các Vua Hùng, Trà My thuộc vùng đất Việt Thường thị. Đến thời kỳ nhà Tần đô hộ nước ta, Trà My thuộc Tượng quận (214 đến 205 trước công nguyên), đời nhà Hán thuộc Tượng Lâm ( từ năm 206 đến năm 192 sau công nguyên) và từ năm 192 đến cuối thế kỷ XIV thuộc vương quốc Chămpa.
Vào thời nhà Hồ (1400-1407) Hồ Quý Ly đã thành lập 4 châu gồm: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Vùng đất Trà My thuộc châu Thăng.
Vào năm 1471, vua Lê Thánh Tông lập Đạo thừa tuyên Quảng Nam, gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn, trong đó, phủ Thăng Hoa gồm phần đất Quảng Nam ngày nay. Vào năm 1510, vua Lê Tương Dực đã đổi Đạo Thừa tuyên Quảng Nam thành trấn Quảng Nam và đến năm 1602, chúa Nguyễn lại đổi trấn Quảng Nam thành Quảng Nam dinh. Năm 1605, chúa Nguyễn thăng huyện Điện Bàn của phủ Triệu Phong ( Thuận Hoá) thành phủ và cho nhập vào Quảng Nam dinh. Quảng Nam dinh lúc bấy giờ gồm có 4 phủ: Điện Bàn, Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn. Vùng đất Trà My thuộc phủ Thăng Hoa.
Vào năm Gia Long thứ hai (1803), Quảng Nam dinh chỉ gồm hai phủ Điện Bàn và Thăng Hoa. Đến năm 1806, Quảng Nam dinh được đổi thành trực lệ Quảng Nam dinh, thuộc Kinh sư. Năm 1827, trực lệ Quảng Nam dinh được đổi thành tỉnh Quảng Nam. Vùng đất Trà My ngày nay, cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, thuộc phủ Tam Kỳ và huyện Tiên Phước.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, từng bước tiến hành việc thành lập chính quyền và phân địa giới hành chính ở Trà My. Ngày 19.3.1947, thành lập châu Trà My, gồm cả vùng đất Trà My và Phước Sơn ngày nay. Tháng 10.1948, châu Trà My được tách ra thành hai huyện là huyện Trà My và huyện Phước Sơn.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng vào đầu năm 1960 chủ trương hợp nhất các huyện miền núi. Thực hiện chủ trương đó, tháng 3.1961, hai huyện Trà My và Phước Sơn được hợp thành huyện Trà Sơn.
Tháng 3.1963, trước yêu cầu ngày càng cao của công tác chỉ đạo miền núi, Tỉnh uỷ Quảng Nam chủ trương giải thể huyện Trà Sơn, để thành lập các khu. Huyện Trà My bao gồm khu II và khu III. Về sau bỏ tên gọi khu và gọi là huyện. Khu II là huyện Bắc Trà My (phần đất phía Bắc sông Tranh); khu III là huyện Nam Trà My ( phần đất phía Nam sông Tranh).
Về phía địch, sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết - ngày 20.7.1954, chính quyền Sài gòn đã điều chỉnh lại địa giới hành chính ở Trà My. Chúng đổi huyện Trà My thành quận Trà My. Ngày 02.3.1959, chúng lại đổi tên quận Trà My thành quận Hậu Đức. Tháng 11.1964, trước sức tấn công của quân và dân ta ngày càng mạnh mẽ, địch buộc phải rút khỏi Trà My, bọn nguỵ quyền Hậu Đức phải đóng chi khu quân sự lưu vong ở Phước Lâm ( nay thuộc xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước).
Tháng 6.1975, sau ngày đất nước thống nhất, huyện Nam Trà My và huyện Bắc Trà My được hợp nhất lại thành huyện Trà My.
1.2- Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường:
Huyện Bắc Trà My có diện tích tự nhiên là: 823,05 km2, là một trong những huyện thuộc vùng núi cao của tỉnh Quảng Nam, nằm ở 15017'13'' đến 18018'00'' vĩ độ bắc, 1080 09'16'' đến 108017'58'' kinh độ đông. Cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 50 km về hướng Tây Nam; phía Bắc giáp huyện Tiên Phước và Hiệp Đức, phía Nam giáp huyện Nam Trà My, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Tây giáp huyện Phước Sơn.
Núi cao nhất của huyện là Hòn Bà (1.347m) thuộc xã Trà Giang. Huyện Bắc Trà My nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 2-8, và mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1 của năm sau.
Bắc Trà My là đầu nguồn quan trọng tạo nguồn nước cho sông Thu Bồn và một số sông ở cánh Bắc của tỉnh Quảng Ngãi. Sông suối ở Bắc Trà My còn có tiềm năng lớn về Thủy điện. Trong những năm đến, Đảng và Nhà nước sẽ xúc tiến xây dựng Thuỷ điện sông Tranh II tại xã Trà Bui vào năm 2005.
Đất đai của Bắc Trà My có nhiều nhóm, gồm: nhóm đất mùn phân bố trên những vùng núi cao, đất vàng đỏ phân bố hầu hết các xã và đất phù sa phân bổ tập trung chính ở các xã Trà Nú, Trà Kót, Trà Giáp, Trà Đốc… Được thiên nhiên ưu đãi, nên đất Bắc Trà My có thể trồng được nhiều loại cây khác nhau: lúa, bắp, sắn, khoai, đậu phụng… đặc biệt ở Bắc Trà My, quế được trồng nhiều nhất ở các xã: Trà Giáp, Trà Ka, Trà Giác, Trà Bui, do phát triển trong môi trường thích hợp, quế Bắc Trà My đạt chất lượng cao, từ lâu được thị trường thế giới ưa chuộng, được gọi bằng nhiều tên: "vua của các loại quế" trước kia và "Cao Sơn ngọc quế" ngày nay.
Huyện Bắc Trà My có 82.305 ha đất, rừng Bắc Trà My có nhiều loại gỗ quý như: lim, dổi, chuồn, gõ…; rừng Bắc Trà My đồng thời là nơi sinh sống của nhiều loài động vật rừng quý hiếm thuộc các loài trong sách đỏ như: voi, cọp, gấu… ở các sông suối có nhiều loại cá, cua, ếch… trong đó đặc biệt là cá niên. Cá niên, cá chình, cá chiên, cá men… với những hương vị riêng, không thể hoà lẫn hương vị với các loài cá ở một số địa phương khác.
Theo điều tra thăm dò bước đầu, Bắc Trà My có nhiều khoáng sản: đồng, niken ở Trà Giáp, thiếc ở Trà Giác, vàng ở Trà Giáp, Trà Bui; nước khoáng nóng ở Trà Bui.
Về giao thông, do đường sông không thuận lợi nên đường bộ trở nên rất quan trọng. Tuyến đường ĐT 616 nối liền Bắc Trà My - Tiên Phước - Tam Kỳ là tuyến đường giao thông chính của Bắc Trà My với ngoài huyện. Đây là tuyến đường được UBND tỉnh và Chính phủ phê duyệt trở thành tuyến đường Nam Quảng Nam nối từ Tam Thanh đến Đắc Tô.